Gà lôi trắng Lophura nycthemera. Nơi ở thích hợp là trong rừng thường xanh ở dạng nguyên sinh và thứ sinh có độ cao từ 500 m trở lên. Các nhà khoa học và nông dân đã gặp chúng ở độ cao 500 - 1000 m, thậm chí trên các đỉnh núi cao 1200 - 1800 m. Chúng kiếm ăn trên mặt đất và ban đên ngủ trên cây. Ảnh: Phùng Mỹ Trung. |
|
Gà lôi hông tía Lophura diardi. Chim đực trưởng thành mào dài 70 - 90 mm, thường dựng đứng, có màu đen lam ánh thép. Đầu, cằm, họng màu đen. Phần dưới lưng màu vàng kim loại. Hông và trên đuôi màu lam ánh thép và đỏ tía. Phần còn lại của bộ lông nhìn chung có màu lam. Chim cái trưởng thành không có mào nhưng lông ở đỉnh đầu dài hơn.Thường gặp trong các loại rừng khác nhau và chỗ cây bụi, kể cả nơi trống trải, dọc đường đi. Độ cao vùng phân bố khoảng dưới 750 m. Đi lẻ hoặc đàn nhỏ và chỉ phân bố từ các tỉnh từ Hà Tĩnh trở vào miền Nam. Đây là loài được đưa vào Sách đỏ Việt Nam. Ảnh: Phùng Mỹ Trung. |
|
Gà lôi vằn Lophura nycthemera annamensis. Mào dài, cằm, họng, toàn thể mặt bụng màu đen. Một đặc điểm dể thấy là một dải, rộng màu trắng chạy dọc theo hai bên cổ. Cánh màu đen với một vài vân trắng; đuôi màu đen có nhiều vân trắng hẹp. Mắt màu nâu da cam hay vàng. Mỏ đen hoặc màu xám sừng. Da quanh mắt màu đỏ tươi, Chân đỏ tía. Loài gà lôi này phân bố ở các rừng Nam Trung bộ, cao nguyên Lâm viên phía bắc Plâycu và phần đông Bắc Nam bộ. Đây là loài chim đặc hữu của nước ta. Ảnh: Phùng Mỹ Trung. |
Gà lôi lam mào trắng Lophura edwardsi. Chim đực trưởng thành nhìn chung có màu xanh lam thẫm. Mào lông ở trên đỉnh đầu màu trắng. Mắt màu đỏ da cam. Mỏ lục vàng nhạt hay màu sừng. Chân đỏ tía. Lần đầu tiên được phát hiện trên vùng rừng rậm quanh núi đá vôi giữa tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị của miền Trung bộ của Việt Nam trên độ cao 50 - 200 m của rừng thứ sinh. Đây là loài được đưa vào Sách đỏ Việt Nam. Ảnh: Phùng Mỹ Trung. |
Vncreatures