Theo thông lệ  của các trường ĐH trên thế giới, ngoài chức năng giảng dạy, trường ĐH  còn là một trung tâm nghiên cứu khoa học kỹ thuật để tìm tòi, sáng tạo  và chuyển giao công nghệ. Nhưng ở Việt Nam, nghiên cứu khoa học không  được phổ biến ở ĐH nên các trường không được xem là trung tâm khoa học  kỹ thuật.
 
Nặng lý thuyết, học thuật; ít tính ứng dụng
 
TS Lê Thị Tuyết  Hạnh, Học viện Quản lý giáo dục, cho biết trong quan niệm của nhiều  giảng viên ĐH hiện nay, nghiên cứu khoa học chưa được coi là nhiệm vụ  thiết thân hay phần việc quan trọng trong công tác của họ.
 
Bằng chứng là ngay ở  ĐH lớn nhất, nhì nước ta đang xây dựng thành trường ĐH đẳng cấp quốc tế  của Việt Nam là ĐH Quốc gia Hà Nội mấy năm gần đây vẫn phải hoàn lại từ  hàng trăm triệu đến hàng tỉ đồng kinh phí nghiên cứu khoa học vì không  giải ngân hết được.
 
Phần lớn quỹ thời gian hiện nay của giảng viên dành cho giảng dạy. Trong ảnh: Một buổi học công nghệ thông tin tại 
ĐH Quốc tế Hồng Bàng (ảnh chỉ có tính minh họa). Ảnh: TẤN THẠNH
 
Nhiều cán bộ khoa  học trong trường ĐH cho rằng nguyên nhân đầu tiên và quan trọng nhất  khiến cho các giảng viên chưa đầu tư nhiều vào nghiên cứu khoa học là cơ  chế quản lý hiện nay của chúng ta.
 
Nhiều nhà khoa học giỏi chuyên môn nhưng nghĩ đến đăng ký đề tài nghiên cứu khoa học là đã ngán bởi các khâu thủ tục  nặng nề, đặc biệt là vấn đề giải ngân quá phức tạp và cứng nhắc.
 
TS Trần Hoàng Hảo và  Th.S Huỳnh Đức Thiện, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐH Quốc  gia TPHCM, cũng thừa nhận việc giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học ở  trường ĐH này còn khá nhiều hạn chế, phần lớn các công trình nghiên cứu  vẫn tập trung vào đội ngũ các nhà khoa học có uy tín lớn.
 
    
        
            | 
             Th.S Phan Kim Ngọc, Trưởng phòng Thí nghiệm tế bào gốc, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên TPHCM: 
            Lương thấp, thiếu người 
            Có  lần sau khi đăng ký đề tài, tôi nhận được kinh phí và mua một chiếc màn  hình máy vi tính nhằm phục vụ việc nghiên cứu. Tuy nhiên, do kinh phí  chỉ đủ để mua màn hình loại cũ có kích thước cồng kềnh và chất lượng  không tốt nên tôi chủ động bỏ thêm tiền túi để bù vào mua một  màn  hình loại tốt hơn để làm việc. Tưởng rằng không có vấn đề gì, nào ngờ  việc đó gây cho tôi rắc rối lớn. Dù số tiền chênh lệch không lớn nhưng  tôi đã phải sửa tới sửa lui, làm lại hồ sơ, hóa đơn, chứng từ các loại  nhiều lần và tốn rất nhiều thời gian để giải trình việc này. Chắc chắn  có nhiều nhà khoa học khác cũng từng gặp phải trường hợp tương tự như  của tôi. 
            Nguyên  nhân thứ hai của chuyện mê dạy hơn nghiên cứu, chính là thu nhập. Do  mức lương quá thấp nên nhiều cán bộ khoa học phải làm thêm một số việc  khác để kiếm sống. Người nỗ lực “chạy sô” giảng dạy, người làm thêm các  dịch vụ khác hoặc làm việc không liên quan đến chuyên môn để có thêm thu  nhập. Bản thân tôi dù làm việc nhiều năm nhưng đến nay lương vẫn chỉ ở  mức 4 triệu đồng/tháng. Thứ ba là do thiếu giảng viên nên một người phải  “gồng” lên, đứng nhiều lớp hơn, lịch giảng dạy dày đặc khiến họ quá mệt  mỏi, quỹ thời gian dành cho nghiên cứu khoa học cũng bị bóp lại. 
            Thanh Lê ghi 
             | 
        
    
Các công trình, nếu có, chỉ tập trung ở lý thuyết, học thuật; các công trình mang tính ứng dụng còn ít.
  Hiện tượng này đã được giải nghĩa với nhiều lý do về động cơ.
 
 
Giảng dạy - nguồn thu nhập chính
 
Động cơ này, theo  ông Lê Minh Tiến, Trường ĐH Mở TPHCM, là do nguồn thu nhập chính của các  giảng viên ĐH hiện nay đến từ việc giảng dạy. Ông Nguyễn Quốc Vọng,  Trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội, đồng thời cũng là giảng viên của ĐH RMIT,  Úc, cho biết phần lớn giảng viên đều dạy rất nhiều giờ, vượt quá  200%-300% số giờ quy định là bình thường.
 
Do tỉ lệ giảng  viên/sinh viên hiện nay ở nước ta rất cao (1/30) nên thật khó để giảng  viên dành thời gian cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Đó là còn chưa kể  đến quy định về giờ chuẩn mà mỗi giảng viên phải hoàn thành trong một  năm học cũng khiến giảng viên vắt giò lên cổ để dạy.
 
Theo quy định hiện  nay, GS và PGS phải dạy đến 380 tiết/năm, giảng viên chính 360 tiết/năm  và giảng viên 280 tiết/năm. Trong khi đó, số tiết học của mỗi môn học ở  ĐH thường chỉ từ 30-45 tiết/môn, đặc biệt khi chuyển sang đào tạo tín  chỉ thì số tiết dạy lại giảm xuống. Vì vậy, muốn hoàn thành nghĩa vụ,  các giảng viên phải dạy rất nhiều môn, không còn thời gian cho nghiên  cứu.
 
PGS Bùi Văn Miên,  Trường ĐH Nông Lâm TPHCM, phân tích thêm việc các trường ĐH, đặc biệt là  ĐH dân lập, trả kinh phí cao hơn làm nghiên cứu nên giảng viên “dại gì  không đi dạy”.
 
Trường ĐH Nông Lâm  có định mức chuẩn là 25.000 đồng/giờ và nếu có học hàm, học vị thì cao  nhất cũng chỉ 50.000 đồng/giờ. Trong khi đó, trường dân lập trả 80.000  -120.000 đồng/giờ.
 
Mặt khác, giảng viên  còn phải thực hiện giờ nghĩa vụ, xong giờ nghĩa vụ thì đi dạy thêm khỏe  hơn, không phải lo thủ tục thanh quyết toán, khỏi phải lo mượn phòng  thí nghiệm, thuê người thực hiện.
 
Vì không có động lực  tài chính nên việc các giảng viên “quên” nghiên cứu mà chỉ tập trung  vào giảng dạy là điều tất yếu. Gần đây, một vài trường ĐH treo giải  thưởng cho những nghiên cứu công bố thế giới, nhưng vì đây là nghiên cứu  của một tập thể nên khi nhận được tiền thưởng, chia ra cho nhóm cũng  không bằng thu nhập khi dạy thêm.
 
Kỳ tới: Nghiên cứu rồi... xếp xó