Cần điều chỉnh phân bố dân cư


 

 

Dự thảo Báo cáo Chính trị Đại hội Đại biểu Đảng bộ TPHCM lần IX (nhiệm kỳ 2010-2015) đã không che giấu mặt hạn chế, yếu kém của mình. Với tôi, đó là mặt mạnh và xin được góp ý thêm về phần “Kết cấu hạ tầng ngày càng quá tải...” mà dự thảo đã đề cập.

 

 
Phát triển tự phát
 
Sau 35 năm phát triển kể từ năm 1975, đặc điểm phát triển tự phát vẫn là xu thế chủ đạo trong việc “nở” ra của TP. Chúng ta chưa có cốt nền được tính toán, quy hoạch nên mặt bằng TP chỗ cao, chỗ trũng. Mỗi năm, mùa mưa đến hoặc khi thủy triều dâng cao, một số tuyến đường bị ngập gây cản trở cho sự đi lại của người dân.
 
Hạ tầng cơ sở lạc hậu, đường sá trong nội thành thì hẹp và mặt đường thường xuyên bị đào xới làm cho chất lượng mặt đường không ổn định... Những năm gần đây, việc cho xây dựng quá nhiều cao ốc văn phòng cho thuê và chung cư cao tầng tập trung ở các quận trung tâm đã làm tăng dân cư vùng trung tâm, dẫn tới quá tải về cơ sở hạ tầng kỹ thuật, như tắc nghẽn giao thông và một loạt hệ quả kèm theo khác như cấp thoát nước, cung cấp điện, bố trí chợ, trường học...
 
 
Vấn đề tổ chức giao thông công cộng thực sự là một thách thức đối với TPHCM. Trong ảnh: Ùn tắc giao thông trên đường Điện Biên Phủ, quận 3. Ảnh: TẤN THẠNH

 
Theo thống kê vào tháng 4-2009, dân số TPHCM là trên 7 triệu người. Mật độ dân số tính bình quân ở thời điểm năm 1999 là 2.404 người/km2  thì  năm 2010, con số này đã nhảy lên 3.400 người/km2.
 
Sự phân bố dân cư trên địa bàn TP rất không đồng đều. Nếu so sánh mật độ dân số giữa các quận 1, 3, 5, 6, 10, 11 (nội thành) với các quận 2, 9, 12 (ngoại thành) thì sự chênh lệch này xấp xỉ 7 - 20 lần. Bên cạnh đó, tỉ lệ khách vãng lai hằng ngày ở TP dự kiến trong năm 2010 là... 2 triệu người.
 
Thách thức về tổ chức giao thông
 

Muốn rõ ràng, cụ thể

Dự thảo vẫn còn dùng những câu chữ rất chung chung, mang tính định tính nhiều hơn định lượng. Chẳng hạn như: “Bước đầu đạt một số kết quả nhất định...”; “...từng bước  nâng cao...”; “...tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao...”; “...có chuyển biến tích cực...”; “...được tăng cường...”...

Những điệp từ, điệp ngữ này cứ lặp đi lặp lại gây cảm giác nhàm chán, dễ làm mất sự tập trung đi sâu vào từng vấn đề để nhận biết đánh giá cho hết ý nghĩa mà vấn đề đề cập. Tâm lý chung của người đọc, người nghe đều muốn rõ ràng, cụ thể bằng những tiêu chí đã đề ra trước đó và đã đạt được đến đâu chứ không nói kiểu chung chung. Khi người đọc, người nghe có nhận chân vấn đề thì mới có “đối sách” tương thích.

Những con số đó cho phép hình dung bức tranh toàn cảnh về nhu cầu dịch chuyển muôn màu muôn vẻ của người dân trên địa bàn TP. Đây thực sự là thách thức cho vấn đề tổ chức giao thông bằng xe buýt và các loại phương tiện giao thông công cộng khác. Xin nói thêm, trình độ dân trí của cư dân TP cũng rất không đồng đều.
 
Cứ xem thái độ ứng xử của họ khi lưu thông trên đường thì thấy rất rõ, nhất là khi lưu thông bắt đầu có trở ngại. Cách kiếm sống của cư dân TP, đặc biệt là những người dân nhập cư, cũng có thể xem là một yếu tố không thể bị bỏ qua trong việc chi phối tới sự di chuyển hằng ngày của người dân. Phần lớn bà con làm các nghề gọi chung là dịch vụ tự do, cá thể. Đặc điểm di chuyển của họ không có quy luật cố định về hướng đi, đoạn đường, thời điểm và tần suất trong ngày.
 
Khi di chuyển trong TP, những người này không chỉ đơn thuần là di chuyển con người của họ mà thường là có nhu cầu kèm theo hàng hóa, phương tiện hành nghề. Vì vậy, các đơn nguyên di chuyển này nên được quy về thuộc loại hình thái vận tải cá thể chứ không còn là hình thái người đi lại theo nghĩa thông thường.
 
Với họ, khó có thể đi xe buýt công cộng khi loại phương tiện này bị giới hạn bởi các luồng tuyến định sẵn và hạn chế hàng hóa mang theo người, cả về trọng lượng lẫn thể tích.
 
Điều này cũng cho thấy loại xe buýt mà TP đang dùng cho giao thông công cộng ở nội thành là bất hợp lý. Bởi lẽ, đối với xe buýt công cộng nội thành ở mọi nước công nghiệp phát triển, người ta chỉ bố trí ghế ngồi chiếm tối đa 30% diện tích của sàn xe.
 
Diện tích còn lại là dành cho người di chuyển với quãng đường ngắn, không cần ngồi hoặc những người có mang theo hành lý cồng kềnh thì đành phải đứng kèm hành lý. Thế mà xe buýt công cộng hiện nay ở TP thì 100% sàn xe đều được bố trí ghế.  Đó không phải là loại xe dành cho những  đơn nguyên vận tải cá thể!
 
Để khắc phục những tồn tại trên, TP cần có những bước điều chỉnh về sự phân bố dân cư, phải tổ chức phân bố các vùng kinh tế hài hòa với vùng cư trú của người dân nhằm tạo sự thuận tiện cho việc bố trí mạng lưới giao thông công cộng cho TP.
PGS-TS Nguyễn Lê Ninh


Giày Đại Phát solution
Số người online:
30288
Số người truy cập:
9544249